View Full Version : Các loại chim ăn thịt - kẻ thù bồ câu ở việt nam
ĐẠI BÀNG BỤNG HUNG
http://nt7.upanh.com/b4.s35.d2/ad121018d74d91cf0bcdd7d0b3cd8535_51794317.439580.j pg (http://www.upanh.com/439580_upanh/v/5vj99t3y9xc.htm)
có tên khoa học Hieraaetus kienerii kienerii, loài này có ở hầu khằp các vùng núi rừng và trung du từ Bắc bộ đến Nam bộ. Chúng luôn có đặc tính chung: săn mồi, lót tổ, nuôi con bằng chân. Mắt chúng có thể nhìn xa, rõ từng chi tiết đến 500m.
http://nt8.upanh.com/b6.s11.d1/9c435ac81fea7759ba56c5c6707d8014_51794338.daibang1 .jpg (http://www.upanh.com/daibang1_upanh/v/6vj5ft9ycxw.htm)
Chúng có khả năng bay rất nhẹ nhàng, khi đến gần con mồi thì bất ngờ tăng tốc, lao đi với vận tốc lên đến 250km/h. Ưng bụng hung thực sự là loài chim thuộc bộ cắt dũng mãnh nhất. Chúng được mệnh danh là "chúa tể bầu trời"
http://nt3.upanh.com/b1.s32.d2/5cf0d8dc86f235fa5fee9fb18bc944be_51794483.439578.j pg (http://www.upanh.com/439578_upanh/v/7vj45t6y4yx.htm)
Làm tổ từ tháng 8 đến tháng 2 năm sau. khoảng tháng 4-5 chim con tập bay. Trong những tháng đầu tiên chim non chuyền cành, đại bàng con chỉ đi theo mẹ để quan sát học cách săn mồi. Khoảng 12 tháng sau khi chim non thật sự thuần thục cách săn mồi, chim mẹ mới cho chim non “ra riêng tự lập” để không bị chết đói.
Nguồn:
Ảnh và phóng sự được anh Lê Hoài Phương thực hiện ở Hàm Thuận Bắc tỉnh Bình Thuận
Chim Việt Nam hình thái và phân loại - Võ Qúi - tập 1 trang 211
Đây là kẻ thù phổ biến nhất đối với chiến binh của chúng ta ở miền Nam!
http://nt1.upanh.com/b4.s11.d1/c980f9955f5739d4087077c954d43221_51821651.blacksho ulderedkite.jpg (http://www.upanh.com/black-shouldered-kite_upanh/v/dvj29nfw1nh.htm)
Phân bố: Loài này có ở Hà Tây, Hòa Bình, Nghệ An, Lâm đồng và khá phổ biến ở Nam bộ.
Đây là loài chim hình thức cặp một vợ một chồng, mùa sinh sản giữa tháng tám và tháng Giêng. chim tham gia vào các màn tán tỉnh trên không có liên quan đến chuyến bay cao . chim đẻ khoảng Ba hoặc bốn quả trứng và ấp khoảng ba mươi ngày. chim con là đủ lông đủ cánh trong vòng năm tuần sau khi nở và có thể săn lùng những con chuột trong vòng một tuần khi nó rời tổ. chim non hoạt động rộng rãi từ các lãnh thổ .
Hành vi
Diều Trắng thường đi săn đơn lẻ hoặc theo cặp, mặc dù nơi thực phẩm dồi dào chúng xảy ra trong các nhóm họ nhỏ và có thể các thời điểm thích giao du của số đông (irruptions), có đến bảy mươi con ăn với nhau trong một con chuột. Các thực hành đánh nhẹ đuôi "flicking " , khi hạ cánh, đuôi là đập mạnh lên và hạ xuống và lặp đi lặp lại liên tục được cho là một lãnh thổ có thể hiển thị. đây là loài đã được quan sát trong chiến đấu trên không ở bên lề vùng lãnh thổ, móng vuốt của nó khóa trong hành vi được mô tả là "vật lộn".
Thực phẩm và săn bắt mồi
Đây là loài hầu như chỉ thích săn bắt chuột, thường sau sự bùng phát chuột ở nông thôn Nó cũng săn những sinh vật khác có kích thước phù hợp khi có sẵn, bao gồm cả châu chấu, chuột., loài bò sát nhỏ, chim, và thậm chí (rất hiếm khi) thỏ, nhưng những con chuột và chuột động vật có vú có kích thước khác chiếm trên 90% chế độ ăn của nó. Ảnh hưởng của nó trên các quần thể chuột có lẽ là quan trọng:. Chim trưởng thành ăn từ hai hoặc ba con chuột mỗi ngày, khoảng một nghìn con chuột một năm ,Trong một dịp quan sát thấy chim trống đã mang không ít hơn 14 con chuột vào một tổ của chim non trong vòng một giờ. Trong một nghiên cứu khác, một chim mái bắt một con thỏ nó xé ra và mang ba phần tư vào tổ cho con chim non.
http://nt7.upanh.com/b1.s33.d2/3b56cc41281ce4329c266c3fc76cc1d8_51821297.blacksho ulderedkite01.jpg (http://www.upanh.com/black_shouldered_kite_01_upanh/v/8vj70napelj.htm)
Chim mái thực hiện hầu hết công việc chăm sóc trứng và chim non (nestlings), mặc dù Chim trống có một phần . nó đẻ 3-4 trứng màu trắng mờ hình bầu dục nhọn đo 42 x 31 mm và có điểm (blotches)màu đỏ nâu Chim mái ấp trứng trong 30 ngày và khi trứng nở ra chim con là bất lực, nhưng nó ủ xuống bao phủ cơ thể của nó. Trong hai tuần đầu, chim mái ủ con thường xuyên, cả ngày lẫn đêm. chim mái không săn bắt, Chim trống thường phản ứng bằng cách đưa thực phẩm cho chim mái cho chim con ăn chúng ăn mảnh nhỏ trong tuần đầu tiên hoặc hai, vào thời điểm đó chim con có khả năng nuốt toàn bộ con chuột. Các giai đoạn chim con trong ổ kéo dài khoảng 36 ngày, gần với cha mẹ cho ăn ít nhất là 22 ngày. Khi chim con được lớn hơn cả cha mẹ mất nó trong biến để nuôi chúng. Lông màu đen bắt đầu xuất hiện dọc theo cánh của chim con khi chúng được khoảng một hai tuần tuổi, và nó có đầy đủ lông đủ cánh và sẵn sàng để bay trong năm tuần Trong thời hạn một tuần để các tổ chim nhỏ có khả năng săn tìm con chuột của mình.
chim non phân tán rộng rãi, chiếm lãnh thổ có thể được xa như 1.000 km (600 dặm) từ tổ
Nguồn: lananhbirds.com
www.vncreatures.net
http://nt9.upanh.com/b5.s11.d1/426ec90906e44545aa8cf72e5b42e269_51864569.shikrajp .jpg (http://www.upanh.com/shikrajp_upanh/v/5vj5eqeddeb.htm)
Ưng xám là loài cắt phổ biến nhất Việt Nam. Có thề gặp loài ưng này ở các tỉnh nhưng nhiều nhất là ở Nam Trung bộ và Nam bộ.
Thời gian làm tổ từ tháng 8 đến tháng 12. Thường chúng đẻ hai trứng, chỉ to bằng trứng vịt, ấp khoảng 30 ngày thì nở. Đặc điểm không bao giờ thay đổi là trứng của chúng luôn được lót bằng lá tươi.
http://nt9.upanh.com/b5.s35.d1/1449fafc9241a424427c150c348c58d7_51864619.30042831 d914418b43e81c96fd9e4e7f.jpg (http://www.upanh.com/30042831d914418b43e81c96fd9e4e7f_upanh/v/8vj00q1d5lr.htm)
Trình độ săn mồi của chim ưng xám đạt đến mức hoàn hảo nhất trong các loài cắt. Bởi vì môi trường sống và săn mồi của chúng là rừng thưa, rừng khộp, rừng núi đá địa hình vừa trống lại vừa có cây rất phức tạp nên chúng vừa có khả năng bay nhanh, vừa có khả năng giảm tốc độ, chuyển hướng đột ngột khi con mồi di chuyển vào rừng cây, hốc đá. Chúng còn có kỹ thuật luồn lách qua rừng tre để săn mồi, biết phối hợp săn mồi tập thể, biết lao vào con mồi từ hướng ngược nắng để con mồi bất ngờ.
http://nt4.upanh.com/b3.s32.d1/bfe74e9bc0d8e9d52f32206af12eb3bf_51864234.a594a398 88670993ecedff76d4aad966.jpg (http://www.upanh.com/a594a39888670993ecedff76d4aad966_upanh/v/evj07q8dctu.htm)
Ưng xám có một đặc điểm cố hữu ở các loài chim cắt là nuôi con bằng chân.
http://nt7.upanh.com/b6.s34.d1/1927d6cbb45c62a85b00679647840004_51864657.caeb2321 5b3494a9c481a776c3edf81a.jpg (http://www.upanh.com/caeb23215b3494a9c481a776c3edf81a_upanh/v/cvj21qad5oj.htm)
Nguồn: www.baoangiang.com
www.vncreatures.net
Một số chim bắt mồi bằng chân sống ở miền đất trống rộng thường bay cao, quan sát cả một vùng mênh mông, rồi lao vun vút xuống. Đại bàng lướt nhanh xuống đất để bắt con mồi dưới đất, còn chim cắt thì bổ nhào còn nhanh hơn để bắt con mồi là chim ở giữa không trung. Diều mướp thì lại săn mồi theo kiểu khác: chúng bay thấp là là, tìm kiếm và nghe ngóng con mồi ở bụi cây. Chim cú cũng thường làm như vậy. Nhiều con chim bắt mồi bằng chân, đặt biệt những con sống trong rừng hoặc thành phố, thường săn mồi bằng cách “rình” có nghĩa là chúng đậu cao chót vót, rồi bay vọt ra khỏi chỗ ẩn náu khi thấy con mồi. Có loài như ưng đuôi dài (ở ta còn gọi là cắt đuôi dài, diều cánh ngắn), lại bay sát mặt đất, dùng lùm cây hoặc cây cối làm vật che để bất ngờ vồ con mồi. Một số chim ăn thịt, ví dụ như chim diều bắt rắn hoặc chim cắt caracaras (ở ta thường gọi là ưng đất) lại bắt mồi trên mặt đất. Khi chúng bước đi như vậy, có nghĩa là chúng đánh động con mồi ra khỏi mặt đất.
Săn mồi bằng cách rình
Diều mốc (họ Ưng) cũng như con diều đuôi đỏ, săn mồi bằng cách rình rất giỏi. Nó đậu một chỗ theo dõi và đợi một chú thỏ lảng vảng cho đến khi nó ra khỏi hang thật xa, và đấy là lỗi lầm cuối cùng của nó. Còn chim cắt nhỏ bình thường săn mồi khi đang bay nhưng vẫn có thể rình mồi khi chúng không phải nuôi con, hay khi chúng đã mệt, bởi vì săn mồi bằng cách rình đỡ tốn sức lực hơn.
http://nt5.upanh.com/b6.s33.d2/83fc74697a43f17d22f0c947c68dffef_51880075.image002 .jpg (http://www.upanh.com/image002_upanh/v/8vjfcuew3wp.htm)
Đòn bổ nhào
Hầu hết chim họ cắt to đều sống ở những vùng đất trống. Không có vật gì che chắn, vì vậy con mồi có thể nhìn thấy chúng từ xa, khiến chúng phải săn một thoi một hồi mới tóm được con mồi. Để có thêm tốc độ, những con chim cắt này bay lên thật cao và bổ nhào xuống con mồi khi nó chưa kịp chạy trốn. Nếu chúng bắt trượt, chúng lại bay lên cao và lao xuống.
http://nt2.upanh.com/b1.s35.d3/2abe253ec24369c69d42a00a9942e152_51880102.image003 .jpg (http://www.upanh.com/image003_upanh/v/6vj03e0c6cl.htm)
Săn từng đàn
Hầu hết những con chim săn mồi bằng chân đều là những thợ săn đi lẻ. Đôi lúc chúng đi săn từng cặp, có một vài loài săn thành nhóm. Chiều diều Harris săn thành từng đàn, đến 6 con một lúc. Có nhiều con chặn đứng ngay con mồi. Nếu con mồi lẫn trốn, một hoặc hai con sẽ cố xua đuổi cho nó chạy ra khoảng trống. Đôi lúc, những con chim này thay nhau gây rối con mồi cho đến lúc nó bị bối rối, kiệt sức và hết đường thoát. Có thể cả đàn chim cùng tấn công con mồi to hơn cả chúng, ví dụ như con thỏ rừng lớn to gấp đôi con chim diều Harris lớn nhất.
http://nt6.upanh.com/b4.s35.d1/44f99228cb1d5d6644919556ca546c79_51880116.image004 .jpg (http://www.upanh.com/image004_upanh/v/7vje6e4c2iu.htm)
Tiện con nào bắt con ấy
Một số chim ăn thịt, như con ưng đuôi đỏ bắt bất cư con mồi nào nó gặp. Chim ưng đuôi đỏ săn mồi nhỏ như chuột báo, nhưng vẫn có thể tìm con mồi to như con thỏ nặng bằng nó. Những con chim bắt mồi bằng chân khác, ví dụ như chim diều bắt sên chỉ ăn một loại mồi. Những con chim có thể lại phát triển sở thích riên: một số chim cắt peregrine đứng rình trên mép núi đá, phục săn những con chim bay qua.
http://nt1.upanh.com/b6.s35.d3/92c09f69cb1eab018850d383cdbf874e_51880131.image005 .jpg (http://www.upanh.com/image005_upanh/v/2vj62u7wbar.htm)
Cần khoảng không gian rộng để bắt mồi
Những con đại bàng to (trừ đại bàng rừng) cần những khoảng không gian riêng, thoáng để bay và hoạt động khi săn mồi. Chúng thường chao liệng, tìm kiếm những vật chuyển động, nhỏ bé, ví dụ như một chú thỏ ve vẩy cái tai hoặc gãi gãi bên sườn, rồi bổ nhào một cú chết người. Cũng có những lúc chúng săn mồi bằng cách rình.
http://nt6.upanh.com/b5.s32.d1/16b03855aa709637b99ca11684be3f52_51880146.image007 .jpg (http://www.upanh.com/image007_upanh/v/8vjbcu4wfag.htm)
nguồn: www.bachkhoatrithuc.vn
http://nt1.upanh.com/b3.s33.d3/ec205101e14ea5a27230969d1060ed88_51933241.whitetai ledeagle03.jpg (http://www.upanh.com/white-tailed-eagle-03_upanh/v/0vf4bd5jbbs.htm)
Đại bàng đuôi trắng White-tailed Eagle (Haliaeetus albicilla) , còn được gọi là Đại bàng biển, giông chim ưng, đuôi trắng, đại bàng biển. Là một loài chim lớn săn mồi trong họ chim ưng (Accipitridae) trong đó bao gồm các loài chim ăn thịt khác như: diều hâu, diều, và Harrier. Nó được coi là loài gần gũi Với Loài Đại bàng đầu trắng ( Bald Eagle) và giống về sinh thái, nhưng lại sống cả 2 vùng Á-Âu.
Ở Việt Nam loài này chỉ mới tìm thấy ở nam bộ.
http://nt1.upanh.com/b3.s35.d4/7fc08e967ca018a2b8a812447efe63e4_51933231.whitetai ledeaglep1largemikebrown.jpg (http://www.upanh.com/white-tailed_eagle_p1_large__mike_brown__upanh/v/evf22d0j4zy.htm)
Thức ăn
Chế độ ăn uống của Đại Bàng Đuôi Trắng là đa dạng, bao gồm cả cá, chim, carrion, và, đôi khi, động vật nhỏ có vú. Nhiều loài chim sống gần như hoàn toàn là ăn xác thối, thường xuyên ăn cắp thực phẩm từ rái cá và các loài chim khác, nhưng con đại bàng này có thể là một thợ săn mạnh mẽ . loài này có thể cạnh tranh quyết liệt với loài đại bàng đầu vàng, nó có thể bắt được cả thỏ rừng, nhu cầu thực phẩm hàng ngày là 500-600 g.
Trong vùng Baltic, các chế độ ăn uống của con đại bàng biển bao gồm chủ yếu là các loài chim biển và cá . Gần đây, nó được báo cáo đã tấn công và ăn thịt chim cốc lớn ...
Sinh Thái:
Đại Bàng Đuôi Trắng trưởng thành ở bốn hoặc năm tuổi. đặc điểm chim có một màn tán tỉnh trên không lên đến đỉnh điểm , chim trống khóa móng vuốt giữa không khí và ôm chặt chim mái rất ngoạn mục.chim trống kêu nhiều trong mùa sinh sản và đặc biệt là chim trống khi gần chim mái, Các cuộc gọi đôi khi có thể đưa vào hình thức song ca giữa các cặp.
Tổ là một dinh thự lớn làm ở những cây to hoặc trên một vách đá ven biển. chim luôn chọn lãnh thổ lâu dài , tổ thường được sử dụng lại, đôi khi trong nhiều thập niên của thế hệ kế tiếp , một tổ ở Iceland đã được sử dụng trong hơn 150 năm.
Lãnh thổ Đại Bàng Đuôi Trắng khoảng giữa 30 và 70 km ², thông thường tại các địa điểm trú ngụ ven biển. Đôi khi chúng được tìm thấy ở nội địa của các hồ và dọc theo các con sông. Các lãnh thổ của Đại Bàng Đuôi Trắng có thể trùng với lãnh thổ của loài Golden Eagle, và cạnh tranh giữa hai loài có giới hạn. Golden Eagles thích vùng núi cao, trong khi Đại bàng đuôi trắng thích bờ biển và biển.
http://nt1.upanh.com/b3.s35.d1/db5f80852705d81dbbd34ba4e07c56bd_51933271.533pxwhi tetailedeaglebattleoverl.jpg (http://www.upanh.com/533px-white-tailed_eagle_battle_over_littleis_upanh/v/4vf82dbj3he.htm)
Một cuộc đấu giữa đại bàng đuôi trắng gần tổ của mình gần ngọn hải đăng, Lofoten, Na Uy.
nguồn: lananhbirds.com
www.vncreatures.net
Còn một kẻ thù nguy hiểm rất nguy hiểm nữa đó chính là con người. Số người thích nuôi bồ câu thì ít..... quá ít, Số người thích ăn thịt bồ câu thì nhiều....quá nhiều, đấy là chưa nói có người vừa thích nuôi nhưng cũng lại vừa thích ăn thịt. hehe
Còn một kẻ thù nguy hiểm rất nguy hiểm nữa đó chính là con người. Số người thích nuôi bồ câu thì ít..... quá ít, Số người thích ăn thịt bồ câu thì nhiều....quá nhiều, đấy là chưa nói có người vừa thích nuôi nhưng cũng lại vừa thích ăn thịt. hehe
Anh ơi món bồ câu người ta cũng nuôi như gia cầm mà anh,cũng như gà thôi chắc là không ảnh hưởng tin thần bằng thịt chó đâu anh nhỉ hihi..
http://nt4.upanh.com/b1.s34.d1/f35c678b34694a27a293653a5f30d124_52021084.blackeag le.jpg (http://www.upanh.com/black_eagle_upanh/v/avfa6bah6ui.htm)
Chim Đai Bàng Mã Lai ( Black Eagle ) thường sống ở rừng nhiệt đới châu Á. được tìm thấy ở phía tây vùng chân núi Himalaya qua Nepal vào Murree đông bắc trong các khu rừng của Đông và Tây Ghats ở bán đảo Ấn Độ và Sri Lanka. một số cũng tìm thấy ở tây bắc Ấn Độ. Miến Điện, Trung Quốc (Vân Nam, Phúc Kiến) phía nam Đài Loan và bán đảo Mã Lai. Chúng thường cư trú tại chỗ và không di cư đã được quan sát thấy.
Trong một nghiên cứu ở miền nam Ấn Độ, cho thấy rằng chúng thường sinh sống ở các khu rừng với độ che phủ lớn, và sẽ di cư đi nơi khác nếu độ che phủ của rừng bị tàn phá.
Ở Việt Nam đã bắt được Loài này ở Vĩnh phú (Tam đảo), Lai Châu, Quảng Nam, Kontum, Bà Rịa, Tây Ninh và châu Đốc, VQG Bidoup Núi Bà, VQG Cát Tiên, và một số cũng có ở các tỉnh trung bộ và biên giới Việt Nam Campuchia Lào, nhưng số lượng rất ít, do điều kiện sinh thái của chúng hoạt động rất lớn, trong khi lại bị con người tàn phả rừng ,nên dẫn đến số lượng ngày càng ít đi....
Chim trưởng thành:
Bộ lông màu nâu đen nhạt, mặt bụng hơi nhạt hơn mặt lưng. Một điểm dưới mắt và trước mắt trắng xỉn, các lông có lẫn đen. Đuôi đen nhạt có vằn xám.
Kích thước:
Cánh: 545 - 600; đuôi: 303 - 340; giò: 80 - 90; mỏ: 45 - 54mm.
Chim Đại Bàng Mã Lai thường ăn các loại thịt sống, chúng thường bắt các loài chim nhỏ hơn, các tổ chim non và các loại động vật nhỏ dưới đất như Rắn, Chuột v..v.. Mùa sinh sản vào tháng 3 đến tháng 7 trong năm, trong một mùa sinh sản chỉ đẻ có 2 con và thường chỉ còn1 con sống do chim con tranh dành nhau miếng ăn do cha mẹ chúng đút mồi không đủ nên chúng thường giết hại lẩn nhau, nên số lượng rất hạn chế, cũng như loài chim này cần ổn định môi trường thì chúng mới xây tổ để sinh sản.
nguồn: lananhbirds.com
http://www.vncreatures.net
Đối với chim bồ câu bay xung quanh Wimbledon, Rufus ba tuổi, một con chim săn mồi, là một quái vật lông vũ. Nhưng đối với người hâm mộ, các nhà tổ chức và các vận động viên anh ấy giúp giữ cho nơi sạch sẽ và ngăn ngừa phiền nhiễu trên sân.
Người sở hữu chú chim tuyệt vời này là ông Wayne Davis nói: "Ông mang đến một sự răng đe và ngăn chim bồ câu bay vào sân tennis và ngăn những chú bồ câu làm tổ lại thay vì ăn.
http://nt3.upanh.com/b3.s32.d1/07173084a5b10efb837c55c7c680939c_52102673.article0 0cb6d43a00000578644638x5.jpg (http://www.upanh.com/article-0-0cb6d43a00000578-644_638x519_upanh/v/1vfc7m6f3ms.htm)
Bằng ánh mắt nhạy bén: Rufus bắt đầu chú ý đến môi trường xung quanh mình và chờ ông chủ Wayne Davis chuẩn bị giao nhiệm vụ
Rufus là một con chim ưng Harris, một loài Hoa Kỳ!
Ông Davis, 48 tuổi, và Rufus đến mỗi ngày lúc 5h30 sáng và làm việc cho đến 4h chiều. Hawk bay xung quanh các sân tennis ở tây nam London, giữ chim bồ câu e dè bay vào hơn tại vịnh.
http://nt1.upanh.com/b6.s35.d4/37889fa3dbc6de85549bdaa6406503f1_52102701.article0 0cb6d82e00000578385638x5.jpg (http://www.upanh.com/article-0-0cb6d82e00000578-385_638x557_upanh/v/2vf64mdf2ge.htm)
Với ánh mắt của loài chim: Rufus là một chú chim ưng harris và sở hữu đặc quyền di chuyển ở Wimbledon và được gọi là "sự sợ hải của các loài chim"
Cặp đôi này sau đó đi đến các công việc khác: giữ chim bồ câu ra khỏi Tu viện Westminster, vòi nước Hampton và một số nơi khác.
Nguồn:www.dailymail.co.uk
http://nu2.upanh.com/b2.s35.d3/4e394ca36f5bdc016804a2651093d2fd_52626472.42.jpg (http://www.upanh.com/42.bonellis-eagle-jc_upanh/v/7vk78wal4vn.htm)
Một chiến binh xấu số của chúng ta đang bị thịt
Giống như tất cả đại bàng, nó thuộc về họ chim ưng ( Accipitridae) . Nó là loài ở miền nam châu Âu, châu Phi cả hai phía bắc và phía nam sa mạc Sahara và trên toàn miền nam châu Á tới Indonesia. Nó là một loài cư trú và đẻ 1-3 trứng trong một tổ trên cây hoặc vách đá treo leo.
Nơi cư trú của Đại Bàng Má Trắng là một khu rừng cây cối rậm rạp,thường đồi với một số khu vực mở. Các loài ở châu Phi thích cạnh rừng thảo nguyên, trồng trọt, và chà, cung cấp có một số cây gỗ lớn, điều này không phải là một loài sống mở hoặc có mật độ rừng môi trường sống.
Kích thước:
Cánh (đực): 482 - 520, (cái) 530- 550; đuôi: 275 -288; giò: 99 - 102; mỏ: 43 - 48mm.
Phân bố:
Đại bàng má trắng phân bố ở Nam châu Âu và châu Á. Trung Quốc, Ấn Độ và Bắc châu Phi.
Việt Nam chỉ mới bắt được Loài này ở Trà Vinh.
http://nu3.upanh.com/b2.s32.d1/75d276ef239a2ca7231d6925579209cf_52626623.2750.jpg (http://www.upanh.com/2750_upanh/v/fvk59w2l7hx.htm)
Mô Tả:
Chim trưởng thành có chiều dài khoảng 55-65 cm Lông đầu có màu nâu và phần trên vai có vạch thẫm ở thân lông. Đuôi xám thẫm ở mặt trên và hơi trắng ở mặt dưới với mút lông trắng nhạt, một dải rộng đen ở gần mút và những dải hẹp lờ mờ ở phần trong. Bao cánh nhỏ và nhỡ nâu có vạch thẫm ở giữa lông. Lông bao cánh lớn và lông cánh đen nhạt, có vằn và vệt trắng ở phần lớn phiến lông trong. Trước mắt trắng, má và tai thay đổi từ trắng đến nâu hung và có vạch đen. Mặt bụng trắng hay nâu hung, có vạch đen nhạt hay nâu thẫm. Dưới cánh trắng ở gần mép và mâu thẫm ở phía trong. Nách nâu viền trắng.
Chim non Mặt lưng màu nhạt hơn. Mặt bụng hung tươi hay hung nhạt có vách đen nhạt hay nâu thẫm, đuôi có vằn và mút trắng. Lông cánh tam cấp và lông vai có nhiều vằn trắng hơn.
Mắt vàng tươi, mắt chim non nâu nhạt. Mỏ xám xanh nhạt, chóp mỏ đen. Da gốc mỏ và gốc mép mỏ vàng xỉn. Chân vàng nhạt.
http://nu6.upanh.com/b6.s33.d1/d4a67237ff357ea56dd14ac784b5b8f4_52626646.bonellis eagle.jpg (http://www.upanh.com/bonellis-eagle_upanh/v/evk15w9l6ro.htm)
Sinh Thái và hành Vi
Nó là loài có một loạt săn bắt các con mồi sống, . Nó thường được săn lùng theo ngang nhanh chóng từ bên trong một cái cây, nhưng nó cũng sẽ bắt được con mồi lhoang3 15 phút trên sườn đồi như đại bàng khác, hoặc thực hiện một hành động đứng từ một vị trí cao. Hầu hết là lấy con mồi trên mặt đất.
Đại bàng này săn các con mồi lớn, thường là động vật có vú hoặc chim. Động vật có vú lên đến kích thước của một con thỏ thường xuyên được thực hiện, và các loài chim kích thước lên lớn . Nó là loài thường im lặng, ngoại trừ trong khu vực lãnh địa và gần tổ. Tiếng kêu klu-kluklu-kluee của nó là ít gay gắt .
Nghiên cứu ADN gần đây dẫn đến các loài này đang được chuyển đến chi Aquila từ Hieraaetus.
Nguồn: lananhbirds.com
http://www.vncreatures.net
http://nu5.upanh.com/b2.s34.d4/06b10e34f03a5f5a024482d6c92bc4a9_52651765.peregrin efalcon2.jpg (http://www.upanh.com/peregrinefalcon2_upanh/v/7vkedw6n0jb.htm)
Chim Cắt Lớn Peregrine Falcon (Falco peregrinus), còn được gọi là ngoại lai (Peregrine), và lịch sử là chim ưng quý ("Hawk Duck") ở Bắc Mỹ, là một loài chim có tính quốc tế của chim săn mồi trong họ cắt (Falconidae) . Chim Cắt Lớn nổi tiếng với tốc độ của nó, đạt tốc độ trên 320 km / h (200 mph) trong quá trình săn đứng đặc trưng của nó, làm cho nó là nhanh nhất còn tồn tại thành viên của vương quốc động vật.
Nó là một, chim ưng có kích thước lớn, với màu xanh-màu xám, phần dưới bụng màu trắng, và đầu một màu đen và "ria mép". Có 17-đến 19 phân loài khác nhau về hình thức và phạm vi, không có những bất đồng về các loài Barbary Falcon là một phân loài hay một loài riêng biệt. Điển hình của chim ăn thịt, tất cả các phân loài của peregrinus F., bao gồm cả các đề cử, được giới tính, với chim mái được lớn hơn đáng kể so với chim trống .
Phạm vi cư trú của loài này bao gồm vùng đất của vùng lãnh nguyên Bắc cực đến vùng nhiệt đới. Nó có thể được tìm thấy gần như ở khắp mọi nơi trên trái đất, ngoại trừ vùng bắc cực, núi rất cao, và rừng nhiệt đới, các chỉ đất rộng băng lớn mà từ đó nó là hoàn toàn vắng mặt ở New Zealand. Thực tế này làm cho nó chim phổ biến rộng rãi nhất thế giới của chim săn mồi. Cả hai tên tiếng Anh và khoa học của loài này có nghĩa là "chim ưng lang thang", đề cập đến những thói quen di trú của nhiều loài phía Bắc.
Ở Việt Năm loài cắt này phân bố khắp cả nước!
Trong khi chế độ ăn uống của nó bao gồm hầu như chỉ các loài chim kích thước trung bình, nó thỉnh thoảng săn động vật có vú nhỏ, loài bò sát nhỏ hoặc thậm chí cả côn trùng. chim làm tổ trong cạo một, thông thường vào cạnh vách đá, Chim Cắt Lớn là một loài nguy cấp tại nhiều khu vực do sử dụng thuốc trừ sâu, đặc biệt là DDT. Kể từ khi lệnh cấm DDT từ đầu những năm 1970 trở đi, các quần thể bị thu hồi, hỗ trợ bảo vệ quy mô lớn của những nơi làm tổ.
http://nu5.upanh.com/b5.s32.d2/ea6129a79a35072fe70e4935f2b8e204_52651795.falcoper egrinusnestusfws.jpg (http://www.upanh.com/falco_peregrinus_nest_usfws_upanh/v/6vkefw4dctm.htm)
Mô Tả:
Đây là loài chim có chiều dài cơ thể của 34-58 cm (13-23 in) và một sải cánh khoảng 80-120 cm . Các chim trống và chim mái có dấu hiệu tương tự và bộ lông, nhưng như nhiều loài chim săn mồi của chim ưng Chim Cắt Lớn hiển thị được đánh dấu ngược lại lưỡng hình giới tính về kích thước, với các chim mái lên đến 30 phần trăm lớn hơn so với chim trống . Chim trống nặng 440-750 gram (0,97-1,7 lb) và chim mái nặng 910 đến 1.500 gram (2,0-3,3 kg); cho sự thay đổi về trọng lượng giữa các phân loài.
cánh dài và nhọn của chim trưởng thành thường xanh đen hoặc màu xám các đầu cánh màu đen Các màu trắng phần dưới bụng với các vệt tối màu nâu hoặc đen đuôi với những thanh mỏng sạch, là dài, hẹp và tròn ở phần cuối với một đầu đen và màu trắng ở cuối. Các đỉnh đầu và "ria mép" dọc theo gò má đen, tương phản mạnh với các mặt nhợt nhạt của cổ và cổ họng trắng , da gốc mỏ (cere) là màu vàng, cũng như bàn chân, mỏ và móng vuốt màu đen.. Các mỏ trên là khía ở gần đầu, một thích ứng cho phép chim ưng để giết con mồi bằng cách cắt đứt cột sống ở cổ . Những con chim chưa trưởng thành rất nhiều màu vàng thêm với sọc,., và có một da gốc mỏ màu xanh nhạt vòng mỏ
http://nu6.upanh.com/b1.s35.d1/511eed6b4cf8f79fcf1da181a28b8254_52651836.peregrin efalconandprey6172.jpg (http://www.upanh.com/peregrine-falcon-and-prey_6172_upanh/v/7vke7wbd5rv.htm)
Sinh thái học và hành vi
Chim Cắt Lớn sống chủ yếu dọc theo các dãy núi, thung lũng sông, bờ biển, và ngày càng ở gần các thành phố, một số cá nhân, đặc biệt là chim trống trưởng thành, ở những khu vực mùa đông không lạnh lắm ,. nó thường trú trên lãnh thổ sinh sản. Chỉ có giống ở Bắc cực climes thường di chuyển khoảng cách rất xa trong mùa đông bắc. nó là loài động vật nhanh nhất trên hành tinh khi bổ nhào săn bắn của mình, hạ cánh ,có liên quan đến việc tăng vọt tới một lớn chiều cao và sau đó lặn dốc với tốc độ thường được cho là hơn 320 km / h (200 mph), và va chạm vào một cánh của con mồi của nó để không làm hại bản thân về tác động. Một nghiên cứu thử nghiệm vật lý chuyến bay lý tưởng "chim ưng "tìm thấy một giới hạn tốc độ lý thuyết ở 400 km / h (250 mph) cho các chuyến bay và độ cao thấp 625 km / h (390 mph) cho các chuyến bay độ caoTrong năm 2005., Ken Franklin ghi lại một hành vi khom lưng chim ưng với tốc độ hàng đầu là 389 km / h (242 mph). .
Tuổi thọ trong tự nhiên là lên đến 15,5 năm. tử vong trong năm đầu tiên là từ 59-70%, giảm đến 25-32% giữa chim trưởng thành , các Chim Cắt Lớn có thể bị giết bởi đại bàng lớn hoặc cú lớn. Các Peregrine Falcon là nơi truyền một loạt các ký sinh trùng và mầm bệnh. Nó là một vật chủ trung gian (vector) cho Avipoxvirus, Newcastle bệnh virus, Falconid herpesvirus 1 (và có thể khác Herpesviridae), và một số mycoses và nhiễm trùng do vi khuẩn. Endoparasites bao gồm Plasmodium relictum (thường không gây bệnh sốt rét trong Peregrine Falcon), Strigeidae sán lá, amaculata Serratospiculum (giun tròn), và sán dây. Được biết đến Peregrine Falcon ectoparasites được nhai chí Ceratophyllus garei (một trời), và Hippoboscidae ruồi (Icosta nigra, Ornithoctona erythrocephala
http://nu4.upanh.com/b5.s35.d1/5e52b20eca5cf07d87fdeccc15bcf183_52651884.23189575 929a14514ec.jpg (http://www.upanh.com/231895759_29a14514ec_upanh/v/cvk1bwaddii.htm)
Sinh sản
Chim Cắt Lớn trưởng thành vào cuối năm đầu tiên của tuổi nhưng trong quần thể giống khỏe mạnh sau khi 2-3 tuổi. Các cặp sống và trở lại làm tổ tại chỗ cùng hàng năm. Các chuyến bay tán tỉnh bao gồm một kết hợp nhào lộn trên không, xoắn ốc chính xác, và lặn dốc.. Để thực hiện điều này có thể, chim mái thực sự bay lộn ngược để nhận được các thực phẩm từ móng vuốt của chim trống . Các Peregrine Falcon là lãnh thổ trong mùa sinh sản;. cặp làm tổ thường xa hơn 1 km (0,6 dặm) ngoài, và thường xuyên xa hơn, ngay cả trong khu vực với số lượng lớn các cặp Khoảng cách giữa tổ đảm bảo cung cấp đủ mồi cho cặp và chim non. Trong thời hạn một lãnh thổ cư trú , một cặp có thể có nhiều gờ làm tổ, số lượng được sử dụng bởi một cặp có thể khác nhau từ một hoặc 2-7 trong một khoảng thời gian 16 năm. Hai chim trống và mái bảo vệ khu vực được lựa chọn đối với tổ Peregrines khác, và thường chống lại quạ, diệc, mòng biển và (trong đất tổ) động vật có vú như cáo, gulô, felids, gấu và chó sói ,bảo vệ tổ của chúng để giết chim ăn thịt lớn như Golden Eagles và Bald Eagles (cả trong đó họ thường tránh như là kẻ thù tiềm năng) mà có thể đến gần tổ.
http://nu4.upanh.com/b1.s33.d3/92c00082abd30294117b4f2be2d5d2aa_52651914.peregrin efalcon1374425c.jpg (http://www.upanh.com/peregrine-falcon_1374425c_upanh/v/dvkf0wfd1qq.htm)
Nó làm tổ trên một cạo thông thường vào cạnh hay vách đá , ngày nay thường xuyên ở nhiều nơi trên phạm vi của nó, về nhà cao tầng hoặc cây cầu. Tổ trên vách đá nhô ra biển (Cliff ) , hoặc trên gờ với thảm thực vật mà nó ưa thích, Trong một số khu vực,. như trong các khu vực của Úc và trên bờ biển phía tây của miền Bắc Bắc-Mỹ, hốc cây lớn được sử dụng để làm tổ. , có một số lớn các peregrines ở miền trung và miền tây châu Âu bằng cách sử dụng các tổ bỏ hoang của loài chim khác lớn , chim mái sẽ chọn một địa điểm làm tổ, nơi nó xước một rỗng nông cạn trong đất xốp,. cát, sỏi, hoặc thực vật đã chết, trong đó để đẻ trứng. Không có vật liệu làm tổ được thêm vào,, các khu vực không bị ảnh hưởng như Bắc Cực, độ dốc lớn và thậm chí cả đá thấp và gò có thể được sử dụng chọn làm tổ.. Các cấu trúc nhân tạo được sử dụng gần giống gờ vách đá tự nhiên mà Chim Cắt Lớn thích cho các vị trí làm tổ của nó.
chim đẻ từ 3-4 trứng được đặt trong cạo, Những quả trứng màu trắng với những điểm mảng màu đỏ hoặc nâu và ấp trứng từ 29-33 ngày, chủ yếu là do chim mái ... chim trống cũng giúp ấp trứng, nhưng vào ban đêm chỉ có chim mái ấp. Mùa sinh sản thay đổi tùy theo địa phương, nhưng thường từ tháng Hai đến tháng Ba tại Bắc bán cầu, và từ tháng bảy-tháng tám ở Nam bán cầu (các phân loài Macropus Úc có thể là cuối tháng mười một và vùng xích đạo nó có thể làm tổ bất cứ lúc nào giữa tháng Sáu và tháng Mười Hai).
Sau khi nở, các chim con, được bao phủ với màu lông trắng kem xuống và có đôi chân không cân đối , cả hai cha mẹ cùng nuôi trẻ con ,Các lãnh thổ săn mồi của cha mẹ có thể mở rộng bán kính 19-24 km (12-15 dặm) từ khu vực , các chim non đầy đủ lông từ 42 đến. 46 ngày cho đến hai tháng sau khi nở, và còn phụ thuộc vào cha mẹ .
Nguồn: http://lananhbirds.com
vBulletin® v4.1.3, Copyright ©2000-2024, Jelsoft Enterprises Ltd.
Việt hóa bởi Nguyễn Phùng Hưng 2009 - Email:
nphunghung@yahoo.com.vn